Nón bài thơ (mặt trong nón thêu vài câu thơ) là nét duyên riêng của những nàng thơ xứ Huế. Nón rơm, nón thúng, nón chóp… được sử dụng phổ biến và cũng đa dạng hơn. Thuyết minh về chiếc nón lá - Ứng dụng trong đời sống!
Chiếc nón bài thơ xứ Huế không chỉ là vẻ đẹp riêng của Huế, mà chiếc nón bài thơ còn là nét duyên của phụ nữ Việt Nam, có lẽ vì thế mà chiếc nón bài thơ đã đi vào thơ ca Việt Nam, là một nét đẹp của văn hoá Việt Nam. Cùng với tà áo dài, chiếc nón bài thơ đã trở thành niềm kiêu hãnh tự hào về vẻ đẹp rất riêng của người phụ nữ Việt Nam.
Nón bài thơ xứ Huế do một người tên là nghệ nhân Bùi Quang Bặc sáng chế ra vào những năm 1960, ngoài những nguyên vật liệu của nón lá khác, ông đã lấy giấy mỏng dính cắt thành những câu thơi, câu ca tình tứ, ép vào giữa hai lớp lá . Nón bài thơ Huế rất mỏng dính
Nghệ thuật: Chiếc nón lá đã đi vào thơ ca nhạc hoạ, điển hình như chiếc nón bài thơ xứ Huế. Người VN có một điệu múa lá "Múa nón" rất duyên dáng. 4. Cách sử dụng và bảo quản Nón sử dụng để đội đầu, không để nón va đập mạnh với các vật sắc, nhọn, cứng sẽ gây biến dạng, nhanh hỏng.
Đặc biệt, nhắc đến chiếc nón lá không thể không nhắc đến một loại nón nổi tiếng đặc trưng: nón bài thơ của xứ Huế. Nón bài thơ được làm kỳ công và tỉ mỉ hơn hẳn các loại nón lá thông thường. Loại nón này rất mỏng, thanh thoát, nhẹ nhàng, được xếp chồng
Vay Nhanh Fast Money. Ảnh Nguyễn Phúc Bảo Minh Nguồn gốc nón lá Huế Nằm bên dòng sông Như Ý, làng Tây Hồ thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế khoảng 12 km về hướng Đông Nam từ lâu đã nổi tiếng với nghề chằm nón lá truyền thống. Nghề chằm nón lá đã hình thành cách đây hàng trăm năm và nón bài thơ – một nét đặc trưng của Huế cũng xuất phát từ làng nón Tây Hồ vùng đất đã từng nổi danh có nhiều cô gái xinh đẹp, làm say đắm biết bao chàng trai trong vùng. Ở Tây Hồ không chỉ phụ nữ biết chằm nón mà ngay cả những người đàn ông cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Không biết tự bao giờ, làng đã bắt đầu nghề làm nón bài thơ. Người ta chỉ biết rằng trải qua bao sự thăng trầm lịch sử làm nón vẫn là cái nghề, là nghiệp phải noi theo của bao thế hệ người làng Tây Hồ. Ban đầu, nón bài thơ chủ yếu được làm để tặng người thân. Thế nhưng, nón lại được nhiều du khách yêu thích nên được làm với số lượng nhiều và bán ra thị trường. Từ đây, những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng hơn, phong phú hơn nhưng cũng không ngoài những câu thơ ca ngợi về cảnh đẹp và con người xứ Huế. Lúc này, để làm đẹp thêm cho chiếc nón, những người thợ làm nghề còn ép vào đó cả tranh về sông Hương, núi Ngự cạnh bài thơ. Đến nay, chiếc nón bài thơ không còn là một sản phẩm bình thường mà đã trở thành nét đặc trưng của xứ Huế. Nguyên liệu để làm nên một chiếc nón bài thơ xứ Huế rất đơn giản, chỉ bằng lá dừa và lá gồi. Để có một chiếc nón bài thơ vừa nhẹ vừa đẹp, người ta phải thực hiện khoảng 15 công đoạn từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ… Để có được lá đẹp, người ta thường lên rừng chọn loại lá non của cây Bồ Qui Diệp có màu xanh nhẹ, sau đó đem phơi sương qua đêm để lá dịu lại. Tiếp theo, người ta phải nức vàng và ủi lá cho phẳng. Để có được lá đẹp, lá làm nón phải giữ được màu xanh nhẹ, người ta ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Sau đó, người thợ chuẩn bị khung để chằm nón. Khung này bao gồm 6 cây sườn chính, dựa trên đó người ta bố trí 16 nan tre được vót nhỏ uốn quanh khung hình chóp nón. Khi làm nón bài thơ, người ta chỉ làm 2 lớp lá, ở giữa là những thắng cảnh và các câu thơ hay. Khi xây và lợp lá, người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Khi nón chằm hoàn tất, người ta đính thêm vào chóp nón một cái “xoài” được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên, sau đó mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền. Từ Tây Hồ, những chiếc nón bài thơ toả đi khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của mỗi phụ nữ Huế. Chỉ với nguyên liệu đơn giản của lá dừa, lá gồi, những chiếc nón bài thơ vẫn trở thành vật “trang sức” của biết bao thiếu nữ. Với nhiều người, lựa nón, lựa quai cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong cái nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề. Những gương mặt trẻ trung ẩn hiện sau vành nón sáng lấp loá đã trở thành một ấn tượng rất Huế, rất Việt Nam. Các loại nón lá Huế Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của đàn bà Việt Nam, chắc chắn không ai chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng. Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử Giang hàng bán một số loại nón lá. - Nón dấu nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa - Nón gò găng hay nón ngựa sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa - Nón rơm Nón làm bằng cộng rơm ép cứng - Nón quai thao người miền Bắc thường dùng trong lễ hội - Nón cời nón rách - Nón Gõ Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa - Nón lá Sen cũng gọi là nón liên diệp - Nón thúng thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng. - Nón khua Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa - Nón chảo thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng - Nón cạp Nón xuân lôi đại dành cho người có tang - Nón bài thơ ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ. Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu ; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành . Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón? Nguyên liệu và các công đoạn sản xuất nón lá Huế Để làm ra được một chiếc nón lá vừa đẹp, vừa nhẹ, vừa bền là cả một nghệ thuật và công phu của những nghệ nhân, đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu trong từng công đoạn của quy trình sản xuất. Danh tiếng, tính chất đặc thù của nón lá Huế có được là nhờ nghề làm nón lá ở Thừa Thiên Huế đã kế thừa những yếu tố hợp lý của các loại nón lá, từ cung đình đến dân gian, từ miền Bắc đến miền Nam để tạo ra sản phẩm riêng của vùng này. Nguyên liệu để sản xuất nón lá Huế là cây lá nón có tên khoa học là Licuala Fatoua Becc, được trồng ở huyện A Lưới và huyện Nam Đông, đây là vùng có lượng mưa lớn, độ ẩm cao nên phù hợp với sự phát triển của cây lá nón. Lá nón nguyên liệu được sử dụng là lá không quá non cũng không quá già. Lá nón nguyên liệu được sử dụng là lá không quá non cũng không quá già – lá thường đang còn búp vừa đủ một tháng tuổi và phát triển hết chiều dài, chiều ngang, chưa chuyển sang màu xanh đậm, các bẹ lá ôm khít với nhau, chưa bung ra, có độ mềm với chiều dài khoảng 40-50cm. Để làm ra được một chiếc nón lá vừa đẹp, vừa nhẹ, vừa bền là cả một nghệ thuật và công phu của những nghệ nhân, đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu trong từng công đoạn của quy trình sản xuất. Trong khâu kỹ thuật, thợ làm nón lá Huế có kinh nghiệm chọn lá dù khô cũng còn giữ được màu xanh nhẹ, 16 vành nức thường mảnh được vót tròn trĩnh, tỉ mỉ và công phu. Lá được ủi nhiều lần, cẩn thận cho thật phẳng và láng. Hình dáng của chiếc nón lá Huế phụ thuộc rất nhiều vào khung chằm. Khung chằm còn gọi là khuôn nón phải được đặt riêng với yêu cầu cụ thể để dáng của chiếc nón lá sau này cân đối, đẹp mắt, vừa ý. Người thợ làm khung nón giữ kỹ thuật tạo dáng mái, khoảng cách giữa các vành và độ tròn của vành... như một thứ gia bảo cha truyền con nối, theo một thẩm mỹ dân gian "hay mắt" mà thật ra là cả một tỷ lệ thích hợp đã được nhiều đời và nhiều vùng kiểm nghiệm "thuận mắt ta ra mắt người". Khi xây và lợp lá phải thật khéo, nhất là khâu sử dụng lá chêm, tránh việc chồng nhau nhiều lớp để sao cho nón thanh và mỏng, mũi chỉ chằm phải sát để kẽ lá ôm khít lấy nhau. Nghệ nhân làm nón đang khâu lá nón trên khung chằm. Ảnh Du lịch Việt Nam. Khi nón chằm hoàn tất, người thợ đính cái soài bằng chỉ màu rất đẹp vào chóp nón sau đó mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để thành nón bóng láng và giữ được bền. Nhờ kinh nghiệm và đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, nón lá Huế không những mang được dấu ấn biểu trưng cho vẻ đẹp của Huế, của làng nghề văn hóa Huế mà còn trở thành hàng lưu niệm được ưa thích của mọi người khắp nơi đến Huế và của nhiều du khách quốc tế. Phân biệt nón lá Huế với các loại nón lá khác Dù xuất hiện ở đâu, chiếc nón Huế vẫn mang đậm hồn quê, vẫn mang đậm hương đồng, gió nội của những làng nghề truyền thống, nơi đã sản sinh ra nó. Nón lá Huế từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của các nghệ sĩ Huế và của những người yêu Huế. Nón lá Huế có được danh tiếng như vậy là do nón lá Huế có những đặc trưng riêng về màu sắc, kiểu dáng, kích thước, trọng lượng, độ bền... đã tạo nên sự khác biệt so với nón lá của các địa phương khác. Về hình thái nón lá Huế màu trắng xanh, có những đường điểm xuyết màu xanh rất nhẹ theo chiều dọc lá nên về cơ bản sắc màu nón lá Huế vẫn là trắng. Nón lá Huế mỏng, nhẹ, thanh tao, mềm mại, đẹp chắc, bền và cân đối. Nón lá Huế mỏng, nhẹ, thanh tao, mềm mại, đẹp chắc, bền và cân đối. Ảnh Mytour. Về các chỉ tiêu chất lượng chính của nón Huế - Trọng lượng trong khoảng 57,4 - 60,3 Mg; - Đường kính nón trong khoảng 40,7 - 41,8 cm; - Chiều cao nón trong khoảng 17,5 - 18,8 cm; - Tính cân đối của nón – tỷ số H/D trong khoảng 0,436 - 0,448; - Chỉ số về độ bền tương đối của nón F/M nón trong khoảng 134,33 - 137,58 là tỉ số giữa lực ép tại thời điểm làm gãy nón với trọng lượng của nón. Phương Thảo - Hương Trang Cục Sở hữu trí tuệ * Tiêu đề đã được Ban biên tập Khám phá Huế đặt để phù hợp với nội dung thông tin tổng hợp.
Nón bài thơ Huế là biểu tượng cho nét đẹp xứ Kinh kỳ Ảnh Báo Thừa Thiên Huế Với người dân Cố đô, nón bài thơ Huế không chỉ là vật dụng che nắng, che mưa mà còn là biểu tượng rất riêng, gắn liền với hình ảnh người con gái Huế dịu dàng và e ấp. Du lịch Huế, du khách có thể bắt gặp hình ảnh những chiếc nón bài thơ trên mọi nẻo đường. 1. Điều gì làm nên sự khác biệt cho chiếc nón bài thơ Huế? “Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ Tà áo dài trắng nhẹ nhàng bay Nón bài thơ e lệ trong tay Thầm bước lặng, những khi trời dịu nắng” Từ lâu, hình ảnh chiếc nón bài thơ đã trở thành biểu tượng đặc biệt, đi sâu vào tiềm thức của người dân xứ Huế. Theo ghi chép của một số tư liệu, nghề làm nón đã tồn tại ở Huế khá lâu. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của con người, những chiếc nón được tạo ra để che nắng, che mưa. Chiếc nón bài thơ xứ Huế có hình dáng mềm mại, thanh tao, thiết kế chỉn chu đến từng đường kim. Nón có màu trắng sáng của lá, kèm theo những màu sắc rực rỡ khác của các loại hoa văn. Để tôn thêm vẻ đẹp của nón bài thơ Huế, các nghệ nhân đã khéo léo lồng ghép hình ảnh những danh lam thắng cảnh Huế lên chiếc nón như sông Hương, núi Ngự Bình. Đây giống như một tác phẩm nghệ thuật đặc biệt mà chỉ khi đến Huế, bạn mới có thể cầm trên tay. Điểm đặc biệt của nón bài thơ Huế chính là khi soi trên ánh sáng có thể nhìn thấy những câu thơ hiện lên một cách tinh tế. Những câu thơ này không phải đề bằng mực thông thường mà được cắt từ giấy, khéo léo ẩn giấu trong hai lớp lá xanh. Người con gái Cố đô nhẹ nhàng, e ấp bên chiếc nón bài thơ Huế Ảnh Sưu tầm 2. Các làng nghề làm nón lá bài thơ nổi tiếng ở Huế Năm 1960, ông Bùi Quang Bặc ngụ ở làng Tây Hồ, xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế có ý tưởng làm ra chiếc nón lá. Với đôi bàn tay khéo léo, ông đã ép những câu thơ lên hai mặt nón, làm tăng thêm vẻ đẹp cho nón bài thơ. Do đó, làng Tây Hồ, xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế được xem như cái nôi của nghề làm nón xứ Huế. Từ đó đến nay, nghề làm nón không ngừng phát triển với nhiều làng nghề nổi tiếng như Phú Cam, Dạ Lê, Triều Tây, Đốc Sơ, Sịa, Kim Long… Mỗi năm, các làng nghề này cho ra thị trường hàng triệu chiếc nón, vừa đáp ứng nhu cầu che nắng, che mưa của người dân, vừa là món quà lưu niệm độc đáo cho du khách thập phương khi ghé thăm Huế. Nón lá bài thơ của xứ Huế không chỉ là chiếc nón đơn thuần mà còn là tác phẩm nghệ thuật thực sự. Để cho ra thành phẩm hoàn chỉnh, các nghệ nhân phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo, cần mẫn cao như Tạo khung và vành nón Khung được tạo nên từ 12 thanh gỗ vát mỏng, chụm lại ở phần đỉnh và tản đều ra ở phía dưới. Trong khi đó, vành nón mảnh mai làm từ thân cây lồ ô. Xử lý lá nón Lá nón được chọn lọc kỹ lưỡng sau khi hái từ rừng về và mang đi sấy. Kế tiếp, người nghệ nhân sẽ hình thành hoa văn trên hai mặt nón. Khâu nón Quá trình khâu nón được thực hiện từ đỉnh xuống vành, cứ 1cm sẽ khâu 3 mũi cước trong suốt để cố định phần lá với vành nón. Quy trình làm nón bài thơ Huế đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo cao Ảnh Cổng thông tin điện tử Thành phố Huế >>> Xem thêm Khám phá 26+ địa điểm du lịch Huế đang được tìm kiếm nhiều nhất hiện nay 3. Chiếc nón bài thơ xứ Huế dùng để làm gì? Nón bài thơ xứ Huế đã đi vào thơ ca song vẫn được sử dụng phổ biến. Trong cuộc sống hiện đại, chiếc nón xuất hiện trong nhiều lĩnh vực với những mục đích khác nhau Dùng để che nắng, che mưa Nón bài thơ Huế tuy giản dị, đơn sơ song lại có thể đội đầu che nắng mưa cực tốt. Decor trang trí Chiếc nón được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực thiết kế và trang trí nội thất để tạo nên không gian hoài niệm, mang đậm văn hóa truyền thống. Đạo cụ biểu diễn văn nghệ Hình ảnh nón bài thơ Huế thân thuộc, gần gũi được đưa lên sân khấu biểu diễn nhằm tái hiện lại khung cảnh cuộc sống lao động vùng quê hay tôn vinh nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Quà lưu niệm Huế Giá nón bài thơ Huế khá hợp lý nên du khách có thể chọn làm quà khi có dịp ghé thăm nơi đây. Bạn có thể mua nón bài thơ ở Huế tại một số địa điểm như chợ Lớn, chợ Đông Ba… Phụ kiện chụp ảnh Khi chụp ảnh ở Huế, đặc biệt trong tà áo dài, du khách có thể cầm thêm chiếc nón bài thơ để tô điểm, đồng thời tăng thêm sự duyên dáng cho bức hình. Để chuyến du lịch Huế thêm trọn vẹn, bạn nên kết hợp du lịch Quảng Nam. Ghé thăm vùng đất xứ Quảng, du khách có thể tham quan, trải nghiệm nhiều hoạt động thú vị tại các địa điểm du lịch Hội An như phố cổ Hội An, chùa Chúc Thánh, chùa Cầu, nhà cổ Phùng Hưng… Ngoài ra, nền ẩm thực đa dạng cũng góp phần hoàn thiện chuyến du lịch của du khách. Đặc biệt, bạn đừng quên ghé thăm VinWonders Nam Hội An – tổ hợp vui chơi, giải trí trong nhà, ngoài trời hấp dẫn nhé. Khu vui chơi gồm 5 phân khu đặc sắc, chắc chắn sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm đáng nhớ Check-in cùng con thuyền, lênh đênh trên sông khám phá thế giới động vật hoang dã ở cự ly cực gần Khám phá văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật truyền thống của người Việt Tìm hiểu về những làng nghề thủ công, trực tiếp trải nghiệm cách làm một số sản phẩm đơn giản như làm đèn lồng, in tranh đông hồ, giấy dó, đan lát, thêu, ươm tơ dệt vải… Thưởng thức các loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc, show diễn độc đáo Thử thách bản thân qua những trò chơi cảm giác mạnh trong thiên đường nước mát lạnh VinWonders Nam Hội An mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị về văn hóa – nghệ thuật truyền thống >>> Còn nhiều điều cực hấp dẫn đang chờ đón bạn khám phá, booking vé vào cửa VinWonders Nam Hội An để chuyến du lịch thêm trọn vẹn nhé! Du lịch phát triển mạnh, nón bài thơ Huế trở thành mặt hàng lưu niệm thể hiện nét đẹp văn hóa xứ Kinh kỳ được ưa chuộng nhất. Nhiều du khách đã tìm về những làng nghề lâu năm để tận mắt chứng kiến, tham gia vào các công đoạn làm nón bài thơ Huế. Hy vọng với những chia sẻ trên, bạn đã có thêm những thông tin hữu ích, từ đó hoàn thiện chuyến du lịch Huế của mình. >>> Đừng quên booking vé vào cửa VinWonders Nam Hội An để không bỏ lỡ những điều thú vị nhé!
“Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễTà áo dài trắng nhẹ nhàng bayNón bài thơ e lệ trong tayThầm bước lặng, những khi trời dịu nắng”Từ lâu nón bài thơ đã trở thành một trong những nét đẹp đặc trưng của văn hóa Huế. Với người dân xứ Huế, nón lá bài thơ không chỉ là vật dụng để che nắng, che mưa, mà hơn thế nó đã trở thành một biểu tượng riêng và gắn liền với hình ảnh người con gái Huế dịu dàng e ấp. Hãy cùng Huế Smile Travel điểm qua đôi nét về chiếc nón bài thơ Huế nhé!Đôi nét về chiếc “Nón lá bài thơ” Khi đến với mảnh đất cố đô này, điều mà bạn dễ dàng bắt gặp được đó chính là hình ảnh của những chiếc nón bài thơ. Theo như Huế Smile Travel được biết, để làm nổi bật và khiến cho những chiếc nón lá bài thơ xứ huế trở nên đặc biệt hơn, các nghệ nhân đã ép những bức tranh của sông Hương, núi Ngự vào trong từng chiếc nón, không những thế một số nghệ nhân còn đưa hẳn thơ ca vào giữa hai lớp có ai từng thắc mắc rằng tại sao lại gọi là “nón bài thơ”, mà không gọi là “nón lá” như thông thường không? Thực ra tên gọi của nó bắt nguồn từ chính đặc điểm nổi bật mà nó mang lại. Nếu để ý các bạn có thể thấy khi soi lên ánh sáng thì bạn có thể thấy một bài thơ hay hình ảnh hoa văn được tạo nên khéo léo, bố cục cân đối hiện lên giữa hai lớp lá THÊM Điện Hòn Chén – Di tích ẩn chứa nhiều giai thoại kỳ bíNghề nón ở Huế có nhiều điều thật lạ, không có ông tổ nghề nhưng người làm nghề có ở khắp nơi. Huế cũng có những làng nghề nón nổi tiếng như làng Đồng Di – Tây Hồ – La Ỷ – Nam Phổ huyện Phú Vang – Phủ Cam – Đốc Sơ thành phố Huế. Mỗi làng lại chuyên về một loại nón. Làm nón 3 lớp đẹp thì có La Ỷ, Nam Phổ, Đốc Sơ; làm nón lá bài thơ nổi tiếng thì có Đồng Di – Tây Hồ – Phủ Cam. Trong cấu tạo hình dáng và độ thanh mảnh thì nón Huế có những điểm khác biệt so với nón ở các vùng miền khác. Cho nên, dẫu đều là nón lá nhưng với những đặc điểm riêng của mình, dù đặt ở đâu nón Huế cũng được nhận ra những chiếc nón có vẻ nhỏ gọn, thế nhưng công đoạn làm ra nó thật sự không hề đơn giản chút nào. Nón được làm hoàn bằng đôi bàn tay khéo léo của con người, để ra được một chiếc nón người làm phải thực hiện đúng 15 công đoạn từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ,… Nguyên liệu của chiếc nón là lá non của cây Bồ Quy Diệp sau khi hái trên rừng đem về phơi sương rồi nức vàng và ủi cho phẳng. Sau đó, người làm phải khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Khung của nón lá sẽ bao gồm 12 thanh gỗ vát mảnh được ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau. 16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho cân đối và hài hòa bài thơ – Nét đẹp đặc trưng, niềm tự hào của người dân xứ HuếNón bài thơ không chỉ là nét đặc trưng cho văn hóa Huế, mà còn là nguồn cảm hứng cho những văn nghệ sĩ sáng tán nên những bài thơ về nón lá “Áo trắng hỡi thửa tìm em chẳng thấyNắng mênh mang mấy nhịp Trường TiềnNón rất Huế nhưng đời không phải thếMặt trời lên từ phía nón em nghiêng”Hình ảnh cô gái Huế với chiếc nón lá bài thơ, khi che trên đầu, khi cầm trên tay, khi nghiêng nghiêng e thẹn đã tạo nên một vẻ đẹp rất Huế. Đã từ rất lâu rồi, khi nghe nhắc đến nón bài thơ, người ta liền nghĩ ngay đến Huế. Trong chiếc nón bài thơ Huế có biểu hiện những nét đẹp của cả một vùng văn nón bài thơ thanh mảnh, cầm trên tay nhẹ tênh, từ đường kim, cho đến vành nón tất cả đều thanh tao, nhỏ mà sắc nét. Nếu chỉ như vậy thì nón bài thơ cũng chưa có gì đặc biệt, làm sao để thổi được cái hồn Huế vào trong chiếc nón, vật dụng hàng ngày của người phụ nữ Huế. Và những câu thơ trên nón lá là một cách sáng tạo của người thợ làm nón ở Huế. Những câu thơ không phải đề bằng mực mà được cắt từ giấy, khéo léo ẩn dấu giữa hai lớp lá xanh, phải đưa nón lên dưới ánh mặt trời mới đọc được. Tâm tình của người Huế luôn kín đáo như vậy đấy. Có tình thôi chưa đủ mà phải có sự kiên trì, thử thách mới giải đáp được tâm hồn người con gái Huế. Và đó chính là điều bí mật của nón bài thơ xứ Huế. Dù chỉ là một chiếc nón bài thơ bé nhỏ nhưng người Huế cũng gửi vào đó một triết lý, một quan niệm sống sâu cảnh Huế mộng mơ, những con đường im mát, những cô gái Huế trong tà áo dài tha thướt đội nón lá bài thơ đã trở thành một trong những hình ảnh đẹp tượng trưng của Huế. Hình ảnh ấy đã tác động đến đời sống nghệ thuật của mảnh đất này. Nếu có dịp đến đây đừng quên mua ít chiếc nón lá bài thơ xứ huế để làm quà, đừng quên ghé thăm những ngôi làng có truyền thống làm nón. Để cảm nhận hết vẻ đẹp văn hóa của xứ Huế, của đất cố THÊM Lễ Vu Lan trên đất Cố ĐôDạ xin chào,Chúng em là Hue Smile Travel – Du Lịch Nụ Cười HuếSứ mệnh của chúng em là mang lại niềm vui và hạnh phúc cho quý Cô Chú, Anh Chị và các Bạn qua mỗi chuyến du lịch; chúng em tin rằng ” chất lượng là nguồn sống, uy tín là hơi thở” sẽ giúp chúng em hoàn thành sứ mệnh và kết nối thêm nhiều chuyến du lịch ý nghĩa cùng quý Cô Chú, Anh Chị và các Bạn.
Nguồn gốc chiếc nón bài thơ Lâu nay du khách gần xa khi đến Việt Nam dù ở bất kỳ nơi đâu đều có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những chiếc nón lá. Cùng với tà áo dài, nón lá được xem là biểu tượng cho sự dịu dàng, mộc mạc của người phụ nữ Việt. Nói về nón lá không thể không nhắc đến Huế, nơi làm ra những chiếc nón được xếp vào hàng bậc nhất cả nước. Ở Huế, chiếc nón lá không chỉ độc đáo bởi vẻ đẹp bề ngoài mà còn mang đậm những nét văn hóa, phong cách riêng. Thiếu nữ Huế dịu dàng trong tà áo dài, nghiêng vành nón lá. Ảnh Lê Chung Một số tài liệu có ghi chép, từ thời các vương triều phong kiến nhà Nguyễn, ở Huế đã có những làng nghề làm nón lá nổi tiếng như Phủ Cam, Dạ Lê, Kim Long, Tây Hồ… Là vật dụng gần gũi, rẻ tiền lại tiện lợi nên bấy giờ chiếc nón lá có mặt khắp thôn quê cho đến thị thành. Nghề làm nón nhờ vậy cũng phát triển ở nhiều địa phương và được nhiều người theo đuổi. Ban đầu nón lá Huế đơn thuần chỉ là vật dụng che nắng, che mưa nhưng dần dà theo thời gian lại được xem như "phụ kiện" đắc dụng của người phụ nữ. Để tôn vinh thêm vẻ đẹp của chiếc nón lá, những nghệ nhân chằm nón xứ Huế đã nảy ra ý tưởng đưa thơ và những hình ảnh của Huế vào trong chiếc nón. Khi soi dưới ánh sáng, trên mỗi chiếc nón, cảnh cầu Trường Tiền, chùa Thiên Mụ hay những câu thơ như “Huế đô thanh lịch dịu hiền/ Bài thơ chiếc nón tâm tình tặng em” hiện ra mờ ảo khiến người ngắm không khỏi thích thú. Không chỉ vậy, nhiều người còn “kết” nón bài thơ bởi màu trắng sáng xanh đặc trưng, thanh nhã trong từng đường kim mũi chỉ được trau chuốt công phu. Nón tuy dày hai lớp mà vẫn nhẹ tênh, bền chắc. Những câu thơ và hình ảnh của Huế ẩn hiện trong vành nón lá khi soi dưới ánh sáng. Ảnh Lê Chung Để làm nên một chiếc nón như vậy, người chằm nón phải kỳ công, trải qua không dưới 15 công đoạn lớn nhỏ. Mỗi chiếc nón bài thơ khi hoàn thành có thể ví như một tác phẩm nghệ thuật mang đậm nét riêng, phong cách văn hóa riêng của Huế. Cùng với tà áo dài, hình ảnh người con gái Huế nghiêng vành nón lá còn đi cả vào trong thi ca. Thông qua chiếc nón, hình ảnh của Huế trong mắt bạn bè, du khách càng thêm phần thơ mộng. Tìm hiểu được biết, nguồn gốc của những chiếc nón bài thơ hiện nay là từ ngôi làng mang tên Tây Hồ thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ngày nay, nghề làm nón bài thơ đã đến với nhiều địa phương, nhưng người dân Tây Hồ vẫn luôn tự hào là nơi làm ra những chiếc nón bài thơ đầu tiên và đẹp nhất xứ Huế. Đáng tiếc là theo thời gian với nhiều biến động, đến nay nghề làm nón bài thơ ở Huế lại đang bị mai một dần. Đìu hiu làng nón Khác với tưởng tượng ban đầu của chúng tôi về hình ảnh già trẻ hăng say làm việc trong không gian đầy nón và lá. Đến Tây Hồ bây giờ khó có thể tìm ra được cảnh người dân miệt mài ngồi chằm nón. Hỏi ra thì được biết, làm nón nay không còn là nghề chính của làng nữa. Làm nón bài thơ thì lại càng ít. Một vài người còn làm nón thì chỉ những lúc nhàn rỗi, phần là để giữ nghề, phần để kiếm thêm thu nhập. Bà Nguyễn Thị Thủy chằm nón bài thơ. Ảnh Lê Chung Lần hỏi nhiều người, chúng tôi cũng tìm được đến nhà bà Nguyễn Thị Thủy, một trong số ít gia đình vì hoàn cảnh mà còn sống bằng nghề chằm nón. Năm nay 47 tuổi nhưng bà Thủy đã có thâm niên chằm nón gần 40 năm. Bà Thủy cho biết, xưa nghề làm nón ở làng giúp nhiều gia đình có cuộc sống ổn định, thậm chí là khá giả nhưng đến nay đã không còn nhiều người mặn mà với nghề. “Ngày xưa còn nhiều người đội thì nón lá còn bán được, giờ mọi người lại thích đội mũ nón vải hơn. Nón lá bây giờ chỉ bán được cho các o, các mệ lớn tuổi, cho người dân ở vùng quê. Nón bài thơ thì chủ yếu bán cho khách du lịch, đa số là khách nước ngoài nhưng ít lắm. Vậy nên làng nón ngày càng đìu hiu, ế ẩm”, bà Thủy chia sẻ. Bà Thủy cho biết thêm, chằm những chiếc nón lá bình thường đã rất vất vả, chằm nón bài thơ lại càng vất vả hơn bởi sự cầu kỳ và mất nhiều thời gian. Dù vậy giá thành của hai loại nón không chênh lệch nhau là bao. Người giỏi việc chằm nhanh nhất chỉ được ba đến bốn nón mỗi ngày. Giá bán sỉ ở chợ chỉ từ – đồng, trừ đi chi phí tiền lời một chiếc nón còn lại rất ít, chỉ dao động từ Đầu ra ngày càng khó khăn nên thu nhập từ vài chiếc nón mỗi ngày chỉ đáng lấy công làm lời. Công việc chằm nón bài thơ khá công phu, vất vả và mất nhiều thời gian. Ảnh Lê Chung “Đến đời của tôi xong có lẽ cái nghề làm nón này cũng coi như hết. Lớp trẻ bây giờ đều kiếm việc khác có thu nhập hơn để làm chứ oằn lưng chằm nón cả ngày cũng không đủ để sống”, bà Thủy giọng đượm buồn. Trước khi rời làng Tây Hồ, chúng tôi tình cờ được gặp thêm bà Dương Thị Tươi 65 tuổi. Bà Tươi là người dành cả đời gắn bó với nghề chằm nón và vừa nghỉ chằm khoảng một năm nay. Biết chúng tôi quan tâm đến việc bảo tồn nghề làm nón bài thơ, bà Tươi góp chuyện rằng từ đầu năm đến giờ cũng có hai đoàn khách nước ngoài tìm về Tây Hồ nhờ bà chằm nón cho xem. Khách xem xong rất thích lại còn hỏi mua nón với giá cao về làm kỷ niệm. “Khách nước ngoài họ khuyên làm sao phải giữ được cái nghề này. Người làm nón chúng tôi cũng mong vậy bởi nếu mất đi nghề của cha ông thì thật tiếc. Nếu sau này tìm cách đưa được khách về Tây Hồ trải nghiệm làm nón bài thơ thì tốt quá. Cứ kéo dài tình cảnh như bây giờ thì về lâu dài chắc người làm nón khó mà giữ được nghề”, bà Tươi bộc bạch. Lê Chung
Làng Tây Hồ là nơi sản sinh ra chiếc nón bài thơ – một vật dụng được xem là mang cả vẻ đẹp của tâm hồn Huế. Nằm bên dòng sông Như Ý, làng Tây Hồ xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế từ lâu đã nổi tiếng với nghề chằm nón lá truyền thống. Nghề chằm nón lá đã hình thành cách đây hàng trăm năm và nón bài thơ – một nét đặc trưng của Huế cũng xuất phát từ làng nón Tây Hồ vùng đất đã từng nổi danh có nhiều cô gái xinh đẹp, làm say đắm biết bao chàng trai trong vùng. “Sao anh không về thăm quê em Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên Bàn tay xây lá, tay xuyên nón Mười sáu vành, mười sáu trăng lên” Người dân Tây Hồ luôn tự hào vì quê mình là nơi xuất xứ của nón bài thơ xứ Huế. Chiếc nón bài thơ ra đời ở Tây Hồ như một sự tình cờ Đó là vào khoảng năm 1959 – 1960, ông Bùi Quang Bặc – một nghệ nhân chằm nón lá, cũng là một người yêu thơ phú trong làng đã có sáng kiến làm nên nón bài thơ bằng cách, ép những câu thơ vào giữa hai lớp lá, tôn vinh thêm vẻ đẹp của chiếc nón lúc đó, nón lá ở Huế chủ yếu được bán vào thị trường của các tỉnh phía nam. Hai câu thơ đầu tiên được ông Bặc ép vào chiếc nón là “Ai ra xứ Huế mộng mơ Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”. Con gái làng Tây Hồ chừng mười tuổi thì đã tự học chằm nón và có người suốt đời chỉ theo nghề chằm nón. Còn đàn ông, ngoài việc đồng áng, họ cũng phụ giúp phụ nữ làm công việc ủi lá hay chẻ tre để làm vành nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì nức vành và ủi lá. Để có được lá đẹp, người thợ thường chọn lá nón vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Khâu chằm nón là công đoạn quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm. Đường chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Khi nón chằm hoàn tất, người ta đính thêm vào chóp nón một cái “xoài” được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên, sau đó mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền. Điều làm nên nét đặc biệt nhất của nón lá Tây Hồ so với sản phẩm cùng loại của nhiều làng nón khác ở xứ Huế chính là dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn và đặc biệt nhất là những bài thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế được cài trong chiếc nón. Ban đầu, nón bài thơ được người dân Tây Hồ làm để tặng người thân, không ngờ lại được mọi người yêu thích. Từ đó, những người làm nón ở Tây Hồ bắt đầu làm nón bài thơ hàng loạt, đưa ra bán ở thị trường. Những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong phú hơn, thường là những câu thơ về Huế. Ngoài ra để làm đẹp thêm cho chiếc nón người ta còn ép vào đấy những bức tranh về sông Hương, núi Ngự cạnh bài thơ. Trải qua một thời gian khá dài, chiếc nón bài thơ là sản phẩm độc quyền của làng nón Tây Hồ. Rồi theo lẽ thường tình, những cô gái làng Tây Hồ đi lấy chồng về các miền quê khác, họ mang theo nghề nón lá truyền thống của mình và nghề làm nón bài thơ được lan truyền rộng rãi khắp các miền quê. Từ Tây Hồ, những chiếc nón bài thơ toả đi khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của mỗi phụ nữ Huế. Chỉ với nguyên liệu đơn giản của lá dừa, lá gồi, những chiếc nón bài thơ vẫn trở thành vật “trang sức” của biết bao thiếu nữ. Với nhiều người, lựa nón, lựa quai cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong cái nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề. Những gương mặt trẻ trung ẩn hiện sau vành nón sáng lấp loá đã trở thành một ấn tượng rất Huế, rất Việt Nam. Website Du lịch Huế Đăng bởi Tô HùngTừ khoá Về thăm nơi xuất xứ nón bài thơ xứ Huế
nón bài thơ xứ huế